Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường C, Trung tâm Sinh thái Nông nghiệp (CARES), Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức khởi động dự án Nghiên cứu chung Việt-Thụy Sĩ. Được tài trợ bởi Quỹ Khoa học Quốc gia Thụy Sĩ và Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam. Thời gian 3 năm (bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 2022). Đề xuất dự án TS. Phạm Văn Hội – Giám đốc Trung tâm sinh thái Nông nghiệp. Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ (FiBL) TS. Christian Schader. Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) ông Pierre Ferrand.
Mục tiêu của dự án:
Đối tác:
Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ (FiBL) được thành lập năm 1973 và là một trong những trung tâm nghiên cứu và thông tin hàng đầu thế giới về nông nghiệp hữu cơ; nó sử dụng hơn 170 chuyên gia. Mối liên hệ chặt chẽ giữa các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau và việc chuyển giao nhanh chóng kiến thức từ nghiên cứu (khoa học đất, khoa học cây trồng, khoa học chăn nuôi, kinh tế xã hội) đến công việc tư vấn và thực hành nông nghiệp là thế mạnh của FiBL.
CARES (Trung tâm Sinh thái Nông nghiệp) chính thức được thành lập theo Quyết định số 4687/QĐ-BGD & ĐT – TTCB của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 06 tháng 11 năm 2000. Là trung tâm nghiên cứu trực thuộc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA) , Giám đốc CARES do Giám đốc VNUA bổ nhiệm. Tuy nhiên, CARES là một tổ chức kinh doanh độc lập, có tính pháp lý, số thuế, con dấu và tự chủ về trách nhiệm tài chính.
Toàn thể các đại biểu tham dự hội nghị
Từ phải sang trái: Các đại diện của FFF – Chương trình hỗ trợ rừng và trang trại Việt Nam: Bà Vũ Lê Y Voan, PGS Việt Nam: bà Từ Thị Tuyết Nhung, Hiệp hội NNHC VN: Ông Hà Phúc Mịch, Viện nghiên cứu NNHC (FiBL) – Tiến sĩ Robert Home, Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) – ông Pierre Ferrand
Dự án sẽ tập trung vào 4 hợp phần:
HỢP PHẦN 1: Tăng cường năng lực cho các hộ nông dân ở Việt Nam thông qua sản xuất nông nghiệp hữu cơ (Chủ trì: CARES)
Với mục tiêu: Phân tích khả năng phục hồi kinh tế, quản trị, tính toàn vẹn của môi trường và phúc lợi xã hội của các trang trại quy mô nhỏ thường và hữu cơ ở Việt Nam; khám phá tiềm năng của nông nghiệp hữu cơ để đóng góp vào sự phát triển bền vững của cộng đồng nông thôn, khả năng phục hồi của các trang trại quy mô nhỏ, sức khỏe và an ninh lương thực của các hộ nông dân..
HỢP PHẦN 2: Các yếu tố cấp hệ thống để thúc đẩy nâng cấp (Chủ trì: FiBL)
Mục tiêu: Tìm hiểu những lý do cơ bản khiến nông dân không nên thực hiện / và hoặc ngừng thực hiện các biện pháp sinh thái để chuyển đổi trang trại của họ theo hướng bền vững hơn, bao gồm cả sinh vật hữu cơ.
HỢP PHẦN 3: Tác động của chứng nhận hữu cơ giữa các trang trại quy mô nhỏ (Chủ trì: FiBL)
Mục tiêu: Xác định tác động của chứng nhận PGS (và bên thứ ba) Về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, và cung cấp bằng chứng thiết thực để hỗ trợ việc hoạch định chính sách.
HỢP PHẦN 4: Tổng hợp, học hỏi và phổ biến (Chủ trì: CARES, FAO)
Mục tiêu: Phân tích thể chế hỗ trợ môi trường cho nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam.
Trọng tâm – Phối hợp với FAO, VOAA, PGS Việt Nam và QUACERT để đưa ra các quan điểm kinh tế, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên cho công việc, và thúc đẩy tích hợp với các sáng kiến nghiên cứu hiện có ở Việt Nam.
TSKH. Hà Phúc Mịch – Chủ tịch Hiệp hội hữu cơ Việt Nam trao đổi về cơ hội và thách thức về Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam
Bà Từ Thị Tuyết Nhung – Trưởng đại diện Ban điều phối PGS Việt Nam phát biểu trong hội nghị.
NGUT. TS. Trần Thị Thanh Bình – Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ (COA) – Đại học Lâm nghiệp
Nguồn: VOAA
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn